Thứ Hai, 29 tháng 12, 2014

Hệ vi sinh đường ruột, Kháng sinh và Béo phì

LTS: Nghiên cứu mới của Cox và cộng sự là một mảnh ghép quý giá giúp chúng ta hiểu hơn về ảnh hưởng của hệ vi sinh đường ruột bị thay đổi bởi kháng sinh đối với bệnh béo phì. Những kết quả thu được cho thấy việc sử dụng kháng sinh làm thay đổi hệ vi sinh đường ruột trên chuột dẫn đến sự thay đổi kết cấu cơ thể và chuyển hóa. Thậm chí điều này cũng xuất hiện khi cấy hệ vi sinh này lên chuột bình thường. Tác giả hứa hẹn một cách ngăn tình trạng béo phì do sự thay đổi vi sinh ruột được truyền từ mẹ sang con bằng cách sử dụng kháng sinh trong giai đoạn đầu đời.

Béo phì là một vấn đề sức khỏe lớn trên toàn cầu nhưng nền tảng của vấn đề này phức tạp hơn những gì chúng ta thường nghĩ. Yếu tố dinh dưỡng và di truyền đóng vai trò một phần trong sự tiến triển của béo phì, điều này giải thích vì sao những năm gần đây trọng tâm được chuyển sang hàng tỉ vi khuẩn ở đường ruột con người và những ảnh hưởng có lợi của chúng trong việc thu nhận năng lượng và tín hiệu chuyển hóa. Một nghiên cứu của Cox và cộng sự chỉ ra rằng việc sử dụng penicillin liều thấp lúc trẻ tuổi cảm ứng tác động kéo dài đến kết cấu cơ thể do thay đổi hệ vi sinh đường ruột.

Thứ Tư, 24 tháng 12, 2014

Một số phối hợp kháng sinh/statin không an toàn

Người lớn tuổi sử dụng kháng sinh Biaxin (clarithromycin) cùng với một số statin sẽ có nguy cơ tương tác dẫn tới phải nhập viện thậm chí là tử vong. Đây là kết quả của một nghiên cứu mới đăng trên Canadian Medical Association Journal, số ra ngày 22 tháng 12.

TS. Kevin Marzo - Trưởng khoa Tim mạch Bệnh viện Đại học Winthrop ở Mineola, New York cho biết: "Các bác sĩ cần nhận thức tương tác mới đáng sợ và cân nhắc thay thế kháng sinh để ngăn ngừa độc tính có thể đe dọa tính mạng."Ông không nằm trong nhóm nghiên cứu.

Theo các tác giả nghiên cứu, hơn 1 tỷ nguời trên toàn thế giới được ước tính là sử dụng statin. Họ cho rằng tương tác thuốc - thuốc là không phổ biến tuy nhiên một số loại thuốc có thể ảnh hưởng đến việc statin chuyển hóa trong cơ thể.

Vì chúng chuyển hóa khác nhau nên một số loại statin - Crestor (rosuvastatin) và Pravachol (pravastatin) không ảnh hưởng bởi các thuốc khác. Tuy nhiên nghiên cứu mới đây cho rằng điều này chưa chắc như thế.

Trong nghiên cứu mới, các nhà nghiên cứu Canada theo dõi hơn 104 000 người  từ 66 tuổi trở lên đang sử dụng một trong hai kháng sinh phổ biến - Biaxin hay Zithromax (azithromycin) - cùng với một trong ba statin, rosuvastatin, pravastatin hay fluvastatin (Lescol).

Các nhà nghiên cứu thấy rằng những người sử dụng Biaxin cùng với một statin có sự tăng nhẹ nguy cơ nhập viên và tử vong do tổn thương thận cấp hay tăng cao nồng độ Kali.

TS. Amit Grarg, chuyên gia về tiết niệu tại Đại học Western - London, Ontario, là người đứng đầu nghiên cứu kết luận: "Để ngăn độc tính, việc sử dụng azithromycin hay các kháng sinh khác không tương tác với statin cần được cân nhắc."

Marzo đồng ý với ý kiến này và bổ sung rằng công nghệ kê đơn theo dõi bởi máy tính có thể giúp bệnh nhân tránh phối hợp đáng sợ kháng sinh - statin. Ông nói: "Kê đơn điện tử có thể nâng cao sự an toàn cho bệnh nhân bằng việc cảnh báo bác sĩ các tương tác nguy hiểm trong thực hành lâm sàng mỗi ngày."TS. David Friedman là Trưởng bộ phận suy tim tại Bệnh viên North Shore-LIJ's Franklin - Valley Stream, New York. Ông cho biết "với sự gia tăng của nhóm statin đối với việc điều trị hạ cholesterol và giảm nguy cơ bệnh tim, chúng ta vẫn cần quan tâm đối với các tương tác thuốc - thuốc có thể xảy ra mà khiến cho một hay nhiều thuốc bị ảnh hưởng trở nên kém hiệu quả thậm chí làm  các tác dụng phụ trở nên nguy hiểm hơn."

Friedman cho rằng: "Nghiên cứu này nhấn mạnh rằng sự cẩn thận và chú ý luôn cần được rèn luyện, đặc biện khi bệnh nhân phải sử dụng nhiều thuốc."

GeekyMedicine dịch - Drugs.com

Thứ Năm, 4 tháng 12, 2014

Tổng hợp enzym từ vật liệu di truyền nhân tạo

Lần đầu tiên trên thế giới, các nhà khoa học cho thấy rằng không chỉ tạo ra được vật liệu di truyền nhân tạo mà còn có thể sử dụng nó để tổng hợp enzym có khả năng xúc tác cho các phản ứng hóa học cần thiết cho sự sống.

Trước đó, người ta cho rằng sự tồn tại của RNA và DNA cần thiết để xúc tác cho phản ứng hóa học được dùng để khởi phát sự sống.

Còn ngày nay, theo tạp chí Nature, một nhóm nhà khoa học thuộc Hội đồng Nghiên cứu Y khoa giải thích cách học sử dụng XNA - vật liệu di truyền nhân tạo mà họ tạo ra trong phòng thí nghiệm - để tạo nên enzym mà không có trong tự nhiên nhưng có thể sử dụng như một enzym cần thiết cho sự sống.

Thành công này sẽ giúp các nhà khoa học tìm ra nguồn gốc của sự sống và có thể đưa ra một thế hệ thuốc mới và cách hoàn toàn mới để nghiên cứu và chuẩn đoán bệnh.

Thứ Tư, 3 tháng 12, 2014

DNA tổn thương gây bệnh như thế nào?

Nghiên cứu mới từ Viện Khoa học Sức khỏe Môi trường Quốc gia Hoa Kỳ (National Institute of Environmental Health Sciences - NIEHS) đã lần đầu tiên xác định cách những phân tử bị phá hủy có thể chèn vào chuỗi DNA. Những phân tử này có thể góp phần gây ra một số bệnh như ung thư, đái tháo đường, tăng huyết áp, bệnh tim mạch và bệnh phổi do chúng gây ra sự chết tế bào.

Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2014

Những điều cần biết về tổn thương gan do thuốc

Tổn thương gan do thuốc luôn là một trong những vấn đề được các bác sĩ và dược sĩ lâm sàng quan tâm mỗi khi theo dõi điều trị một bệnh nhân cụ thể. Bài viết sau đây của TS. Y khoa Rowen K. Zetterman được đăng trên Medscape là một trong số ít những bài viết tổng quan về vấn đề này với những cập nhật mới trong phác đồ chuẩn đoán và điều trị theo Hội Tiêu hóa Hoa Kỳ. Bản dịch sau đây được thực hiện GeekyMedicine.

Thứ Tư, 15 tháng 10, 2014

FDA lần đầu chấp thuận viên phối hợp để điều trị HCV

FDA đã chấp thuận Harvoni (ledipasvir và sofosbuvir) để điều trị viêm gan siêu vi C genotype 1.

Harvoni là viên phối hợp đầu tiên để điều trị nhiễm HCV genotype 1 mạn. Nó cũng là thuốc đầu tiên được chấp thuân mà không cần điều trị cùng với interferon hay ribavirin - 2 thuốc cũng được FDA chấp thuận để điều trị HCV.

Cả hai thuốc trong Harvoni can thiệp tới các enzymes cần cho việc nhân lên của HCV. Sofosbuvir đã được chấp thuận và lưu hành dưới biệt dược Sovaldi. Harvoni cũng chứa một thuốc mới là ledipasvir.

Thứ Ba, 14 tháng 10, 2014

Cấy hệ vi sinh trong phân bằng viên nang đông lạnh đường uống để điều trị Clostridium difficile tái phát

Việc cấy hệ vi sinh vật trong phân (Fecal microbiota transplantation - FMT) đã cho thấy hiệu quả trong việc điều trị Clostridium difficile tái phát nhưng những rào cản trong thực tế và tính an toàn đã ngăn việc sử dụng liệu pháp này một cách rộng rãi.

Nghiên cứu mới được đăng trên JAMA được tiến hành để đánh giá tính an toàn và mức độ giảm tiêu chảy sau khi uống viên nang FMT đông lạnh từ người cho không liên quan đã sàng lọc trước đối với bệnh nhân nhiễm C. difficile.

Thứ Bảy, 11 tháng 10, 2014

Thuốc nano dành cho Hội chứng khô mắt

Một nhóm nghiên cứu hy vọng rằng trong tương lai không quá xa, hàng triệu người bị khô mắt sẽ không phải nhỏ mắt ba lần mỗi ngày nữa. Họ đang phát triển thuốc nhỏ mắt sử dụng các tiểu phân nano dạng truyền - và không khác so với nước thường  và điều này chỉ phải thực hiện mội lần mỗi tuần.

Chủ Nhật, 5 tháng 10, 2014

Đề kháng kháng sinh - Những vấn đề, tiến bộ và toàn cảnh

Hai cách chủ yếu mà nhờ đó y học hiện đại đã cứu nhiều mạng sống  là thông qua điều trị kháng sinh cho các nhiễm trùng nghiêm trọng và tiến hành các thủ thuật y khoa và phẫu thuật dưới sự bảo vệ của kháng sinh. Cho đến bây giờ, chúng ra chưa thể ngăn nhiều loại tác nhân gây bệnh đề kháng với kháng sinh - là di sản của kỷ nguyên vàng son khi khám phá ra kháng sinh, những năm 1930 đến 1960. Chúng ta gọi giai đoạn này là "vàng son" vì những thành công xảy ra trong trong giai đoạn này; gọi đó là "kỷ nguyên" vì nó đã kết thúc. Các nhà khoa học đã chuyển từ tạo ra nhiều biến thể của các thuốc cũ để theo đuổi các thuốc mới về cơ bản với các hoạt tính chống lại các tác nhân gây bệnh đề kháng, và họ thường thất bại.  Sự kiên trì, thất bại đắt giá khi khám phá kháng sinh mới dự kiến để sử dụng ngắn hạn kể cả khi họ tiếp tục quy trình được chấp thuận khiến nền công nghiệp chuyển trọng tâm sang các thuốc sử dụng lâu dài để ngăn ngừa hay giảm nhẹ các bệnh không nhiễm. Vì công dân ở những nước giàu không cần những kháng sinh hiệu quả và họ đã chia sẻ với những người ở các nước nghèo hơn không thể có được nó trước hết.

Thứ Bảy, 4 tháng 10, 2014

Ketoconazole HRA đề nghị chấp thuận trong điều trị Hội chứng Cushing

Cục Dược phẩm Châu Âu tạo điều kiện cho bệnh nhân tiếp cận điều trị một rối loạn hormon hiếm gặp

Cục Dược phẩm Châu Âu (The European Medicines Agency - EMA) đã tiến cử cấp phép kinh doanh cho Ketoconazole HRA (ketoconazole) trong điều trị Hội chứng Cushing, một rối loạn hormon hiếm gặp đôi khi được gọi là hypercortisolism. Ủy ban Sản phẩm Dược phẩn dùng cho người (CHMP) của EMA đã đánh giá thuốc này dưới sự thúc giục, điều này giúp bệnh nhân nhanh chóng tiếp cận thuốc mới khi nhu cầu thuốc không được thỏa mãn.

Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2014

NSAID làm tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch

Một vài thuốc kháng viêm không steroid (Non-steroidal anti-inflammatory drug - NSAID) từng được biết làm tăng nguy cơ huyết khối động mạch. Những kết quả mới từ một nghiên cứu tổng quan hệ thống và meta-analysis chỉ ra rằng NSAID cũng làm tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch.

Nghiên cứu này đăng trên Rheumatology (24 tháng 9 năm 2014), bao gồm 5 nghiên cứu bệnh-chứng và một nghiên cứu đoàn hệ với tổng cộng 21.401 biến cố huyết khối tĩnh mạch (venous thromboembolic events - VTE). Tỉ số nguy cơ của VTE là 1,8 (khoảng tin cậy 95% 1,28 - 2,52) đối với người dùng bất cứ NSAID và 1,99 (khoảng tin cậy 95% 1,44 - 2,75) đối với người dùng chất ức chế chọn lọc COX-2, so với người không sử dụng.

Nhóm tác giả nghiên cứu, đứng đầu là Patompong Ungprasert từ Đại học Columbia, New York, cho rằng đây là nghiên cứu meta-analysis đầu tiên về mối liên hệ giữa NSAID và VTE. Họ cảnh báo: "NSAID nên kê đơn một cách thận trọng, đặc biệt là ở bệnh nhân có nguy cơ nền cao đối với VTE."

(GeekyMedicine dịch, The Pharmaceutical Journal)

Thứ Năm, 2 tháng 10, 2014

Nghiên cứu mới về Vitamin D và Đái tháo đường

Nghiên cứu mới từ Đại học Cambridge - UK đã thách thức những nghiên cứu trước đây về việc nồng độ cao của Vitamin D có thể ngăn ngừa Đái tháo đường tuýp 2.

Những nghiên cứu quan sát trước kia cho rằng việc Vitamin D thấp có thể góp phần phát triển Đái tháo đường tuýp 2. Nhưng vì họ nghiên cứu quan hệ nhân quả nên họ chưa thể chứng minh nó: họ chỉ có thể thiết lập mối liên hệ.

Một nghiên cứu di truyền lớn công bố trên tạp chí The Lancet Diabetes and Endocrinology, đưa ra kết luận rằng không có bằng chứng một người có nồng độ vitamin D thấp làm họ phát triển Đái tháo đường tuýp 2.

Thứ Hai, 1 tháng 9, 2014

Hi vọng mới cho bệnh nhân suy tim

Trong so sánh mới đây, một loại thuốc thử nghiệm được đánh giá là có hiệu quả hơn điều trị chuẩn trong phòng ngừa tử vong và nhập viện ở bệnh nhân suy tim. Theo tác giả nghiên cứu , thử nghiệm đã dừng lại sớm vì lợi ích rõ rệt của thuốc mới tên là LCZ696.

Thứ Năm, 28 tháng 8, 2014

Đái tháo đường tuýp 1 và 2 đều gây ra bởi cùng cơ chế

Kết quả từ các nhà khoa học tại Đại học Manchester và Auckland chỉ ra rằng cả hai thể chính của đái tháo đường tuýp 1 và 2 đều là kết quả của cùng một cơ chế.

Nghiên cứu đăng trên Tạp chí FASEB, cung cấp những bằng chứng thuyết phục rằng đái tháo đường tuýp 1 và tuýp 2 đều gây ra bởi việc hình thành khối độc của một hormon tên là amylin.

Kết quả này dựa trên nghiên cứu trong 20 năm tại New Zealand, chỉ ra rằng đái tháo đường tuýp 1 và 2 cùng giảm và có thể đảo ngược bởi các thuốc ngăn amylin hình thành khối độc này.

Nghiên cứu: Aspirin có thể thay thế warfarin đối với chứng huyết khối tĩnh mạch sâu

Theo các nhà nghiên cứu Úc, aspirin được đề nghị thay thế cho những người có huyết khối tĩnh mạch sâu ở chân và không dung nạp với việc dùng thuốc chống đông kéo dài.

Chứng huyết khối tĩnh mạch sâu (deep vein thrombosis - DVT) có thể de dọa tính mạng nếu huyết khối vỡ và di chuyển đến phổi và làm tắc nghẽn động mạch phổi. Bệnh nhân phải thường xuyên dùng các thuốc chống đông như warfarin để ngăn hình thành huyết khối.

Thứ Bảy, 23 tháng 8, 2014

NSAID có thể giảm một nửa tỉ lệ tái phát ung thu vú ở phụ nữ thừa cân

Một nghiên cứu mới bởi các nhà khoa học tại Đại học Texas ở Austin đã cho thấy rằng tỉ lệ tái phát ung thư vú liên quan hormon giảm hơn một nửa ở phụ nữ thừa cân và béo phì có sử dụng thường xuyên các thuốc kháng viêm không steroid.

Các nhà nhiên cứu khảo sát dữ liệu từ 440 phụ nữ có ung thư vú xâm lần, estrogen receptor alpha (ERα)-dương tính, được điều trị tại Trung tâm Khoa học sức khỏe Đại học Texas và Phòng khám của Trung tâm START cho Chăm sóc Ung thư (cả hai đều ở San Antonio, TX) từ năm 1987 đến 2011.

Trong nhóm này, 58,5% phụ nữ béo phì và 25,8% phụ nữ thừa cần. Khoảng 81% sử dụng aspirin và số còn lại sử dụng NSAID khác. Khoảng 42% phụ nữ dùng statin và 25% dùng acid béo omega-3.

Kể cả sau khi kiểm soát việc sử dụng statin và acid béo omega-3, kết quả đã được chứng minh hiệu quả bảo vệ đối aspirin và NSAID khác.

Các nhà nghiên cứu cũng thấy rằng phụ nữ có chỉ số khối cơ thể BMI cao hơn 30 và  ung thu vú ERα-dương tình có tỉ lệ tái phát thấp hơn 52% và trễ hơn 28 tháng nếu họ sử dụng aspirin hay các NSAID khác.

Thứ Hai, 18 tháng 8, 2014

Phương thuốc "thần kỳ" điều trị Ebola bắt nguồn từ y học thế kỷ 19

Liệu pháp kỳ diệu để điều trị cho hai người Mỹ nhiễm virus Ebola là tiêu điểm của tuần qua, nhưng phương thuốc này bắt nguồn từ đâu?Trong một tường thuật khoa học, TS. Scott Podolsky viết rằng ý tưởng về thuốc này có nguồn gốc từ một nghiên cứu tiên phong từ cuối thế kỷ 19.

Theo WHO ngày 6 tháng 8, TS. Karl Brantly và Nancy Writebol từng làm việc tại bệnh viên ở Liberia, nơi mà họ tiếp xúc với virus chết chóc Ebola - loại virus chịu trách nhiệm cho 961 cái chết suốt giai đoạn bùng nổ.

Một trong những bệnh nhiễm mạnh nhất thế giới, Ebola có tỉ lệ tử vong đến 90% và được đặc trưng bởi cơn sốt đột ngột, yếu cơ, đau cơ, đau đầu và viêm họng.

Hiện tại, thuốc cho bệnh này chỉ giới hạn cho trường hợp chăm sóc hỗ trợ tích cực. Tuy nhiên, những nhân viên này có cơ hội được sử dụng ZMapp - một thuốc thử nghiệm chỉ được thử trên khỉ trước đó - và thuốc này đã cứu sống họ.

TS. Scott Podolsky, PGS về Y tế cộng đồng và Sức khỏe Toàn cầu tại trường Y Harvard, đã viết trong Annals of Internal Medicine rằng ZMapp có nhiều điểm chung với các phương thức trị bệnh được phát triển vào cuối thế kỷ 19.

Thứ Tư, 13 tháng 8, 2014

Khám phá phân tử giúp ngăn ngừa và điều trị suy tim

Có khoảng 5,1 triệu người Mỹ mắc chứng suy tim, khoảng 50% tử vong sau chuẩn đoán 5 năm. Nhưng các nhà nghiên cứu ở Khoa y - Đại học Indiana đã khám phá ra một phân tử ở tim mà họ nói rằng có thể ngăn diễn tiến chứng bệnh này.

Suy tim xảy ra khi tim không thể bơm đủ máu và oxy đi khắp cơ thể để cung cấp cho các cơ quan khác. Nó có thể gây ra bởi một số bệnh bao gồm tăng huyết áp, bệnh tim và đái tháo đường.

Có những thuốc như chẹn beta, statin sẽ giúp cải thiện chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân được chuẩn đoán sớm. Hoạt động thể chất hằng ngày và chế độ ăn lành mạnh giúp làm chậm diễn tiến của nó.Nhưng các nhà khoa học trong nhiên cứu mới nhất - đứng đầu là TS. Ching-Pin Chang, PGS Y khoa của Khoa Y - Đại học Indiana cho biết rằng một chiến lược dự phòng và điều trị mới cho suy tim sẽ xuất hiện khi khám phá ra chuỗi RNA dài không mã hóa được gọi là Myheart (myosin heavy-chain-associated RNA transcript)

Thứ Năm, 7 tháng 8, 2014

Hỏi đáp về thuốc thử nghiệm và vắc xin Ebola

LTS: Dưới đây là một số câu hỏi và trả lời thường gặp về ZMapp - một thuốc thử nghiệm để điều trị Ebola, và các vấn đề liên quan đến việc phát triển thuốc, vắc xin cho Ebola. Nguyên văn của CDC, bản dịch do Geeky Medicine thực hiện.

Thứ Ba, 5 tháng 8, 2014

Chủ Nhật, 3 tháng 8, 2014

Top 100 thuốc được kê đơn nhiều nhất và doanh số cao nhất

Theo số liệu mới nhất từ nghiên cứu của IMS Health thì có sự thay đổi nhỏ trong danh sách những thuốc bán nhiều nhất và kê đơn nhiều nhất ở Hoa Kỳ. Thuốc điều trị nhược giáp levothyroxine (Synthroid, AbbVie) tiếp tục là thuốc có doanh số cao nhất, và thuốc chống trầm cảm aripiprazole (Abilify, Otsuka Pharmaceutical) tiếp tục có doanh thu cao nhất.

Số liệu phản ánh chu kỳ 12 tháng qua (tháng 7 năm 2013 - tháng 6 năm 2014) trong top 100 thuốc theo tổng doanh thu và tổng doanh số ở Hoa Kỳ.

Theo sau Levothyroxine (với 22,6 triệu đơn) là thuốc hạ cholesterol rosuvastatin (Crestor, AstraZeneca) với khoảng 22,5 triệu đơn; thuốc ức chế bơm proton esomeprazole (Nexium, AstraZeneca), với khoảng 18,6 triệu đơn; và thuốc hen suyễn albuterol (Ventolin HFA, GlaxoSmithKline), với 17,5 triệu đơn và fluticasone propionate/salmeterol (Advair Diskus, GlaxoSmithKline), với 15 triệu đơn.Những thuốc còn lại trong top 10 theo thứ tự là thuốc chống tăng huyết áp valsartan (Diovan, Norvatis), insulin đường tiêm (Lantus Solostar, Sanofi-aventis), thuốc chống trầm cảm duloxetine (Cymbalta, Eli Lilly), thuốc trị giảm chú ý lisdexamfetamine dimesylate (Vyvanse, Shire) và thuốc chống động kinh pregabalin (Lyrica, Pfizer)

Theo sau aripiprazole, các thuốc có doanh thu cao nhất là thuốc trị viêm khớp adalimumab (Humira, AbbVie, $6.3 tỉ), esomeprazole (Nexium, $6.3 tỉ), rosuvastatin (Crestor, gần $5.6 tỉ), and thuốc trị viêm khớp etanercept (Enbrel, Amgen, gần $5.1 tỉ).

Trong top 10 về doanh thu còn có Advair Diskus ($5.0 tỉ), thuốc kháng virus sofosbuvir (Sovaldi, Gilead, $4.4 tỉ), thuốc trị viêm khớp infliximab (Remicade, Centocor; $4.3 tỉ), insulin đường tiêm (Lantus Solostar, sanofi-aventis, $3.8 tỉ), thuốc trị giảm bạch cầu trung tính pegfilgrastim (Neulasta, Amgen; gần $3.7 tỉ).

Thứ Bảy, 2 tháng 8, 2014

Những kết luận từ Báo cáo toàn cầu về giám sát Đề kháng kháng sinh 2014 của WHO

LTS: Báo cáo mới nhất này của WHO cho chúng ta thấy bức tranh toàn cảnh về tình hình đề kháng kháng sinh không chỉ của vi khuẩn mà cả với ký sinh trùng, virus và nấm. Một viễn cảnh về thời đại hậu kháng sinh mà ở đó các nhiễm khuẩn thông thường hay các vết thương nhỏ cũng có thể giết chết con người - đưa chúng ta trở về thời kỳ khải nguyên xa xưa, đang trở nên rất thực tế ở thế kỷ 21. WHO nhấn mạnh vấn đề giám sát và đưa ra những giải pháp cho việc hợp tác toàn cầu. Sau đây là bản dịch những kết luận cuối cùng trong bản báo cáo này của Geeky Medicine.

FDA chấp thuận olodaterol - thuốc đường hít mới cho COPD

Cục Quản lý Dược và Thực phẩm Hoa Kỳ vừa chấp thuận thuốc giãn phế quản dạng xịt dùng một lần mỗi ngày - olodaterol (Striverdi Respimat) dùng để điều trị tắc nghẽn khí đạo kéo dài ở bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, bao gồm cả viêm phế quản mạn và/hoặc khí thũng.
Thông báo dẫn khuyến cáo vào Tháng 2 năm 2013 từ Ủy ban Chuyên gia Thuốc Dị ứng Phổi (Pulmonary-Allergy Drugs Advisory Committee - PADAC) cho biết các dữ liệu lâm sàng đi kèm hồ sơ thuốc mới cung cấp bằng chứng quan trọng và thuyết phục để chứng minh sự chấp thuận đối với thuốc mới của Boehringer Ingelheim.

Thừa cân có thể có lợi cho sức khỏe?

Thừa cần có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của chúng ta. Nhưng điều đó có thể có ích? Hai nghiên cứu mới cho thấy việc thừa cân có thể bảo vệ khỏi các ca tử vong do nguyên nhân tim mạch.

Theo CDC (US Centers for Disease Control and Prevention), 69% người trưởng thành trên 20 tuổi bị thừa cân hoặc béo phì - một thống kê rằng điều này liên quan đến các vấn đề sức khỏe ở người thừa cân.

Cụ thể, thừa cân và béo phì có liên quan đến biến chứng tim mạch. Năm ngoái, Medical News Today báo cáo một nghiên cứu trên JAMA, cho thấy béo phì kéo dài có thể gây ra bệnh tim. Một nghiên cứu gần đây cho biết bệnh tim là nguyên nhân chính tử vong ở những người béo phì độ 3 - đây là mức độ "béo phì nghiêm trọng".

Nhưng nghiên cứu mới nhất được đăng trên tạp chí Myo Clinic Proceedings, phản đối ý kiến này. Họ ủng hộ lý thuyết gọi là "Nghịch lý béo phì" (Obesity paradox) - cho rằng thừa cần có thể bảo vệ con người đối với một số vấn đề y học cụ thể; trong các ca của nghiên cứu này, nó có thể bảo vệ khỏi các hậu quả tim mạch bất lợi.

Thứ Ba, 22 tháng 7, 2014

Phương pháp mới điều trị bệnh Crohn đến từ việc khám phá protein bảo vệ

Nguyên nhân chính xác của bệnh Crohn - một chứng gây viêm đường ruột - hiện vẫn chưa rõ. Tuy nhiên, các nhà khoa học đều đồng ý rằng nó là kết quả khi những biến thể gen nào đó kết hợp với phản ứng miễn dịch bất thường do yếu tố môi trường. Hiện nay, một nghiên cứu mới bởi hai nhà khoa học làm sáng tỏ một trong các yếu tố di truyền, cụ thể là cách một protein bảo vệ giúp làm ổn định protein có liên quan đến bệnh Crohn.

Chủ Nhật, 20 tháng 7, 2014

Steroid có thể ngăn cản sự tăng trưởng ở trẻ hen suyễn

Corticosteroid đường hít có thể ức chế sự tăng trưởng trong năm điều trị đầu tiên ở trẻ em hen suyễn, nhưng liều thấp có thể tối thiểu ảnh hưởng, đây là kết quả của 2 nghiên cứu tổng quan hệ thống công bố ngày 17 tháng 7 trên Cochrane Library.Corticosteroid đường hít là những thuốc hiệu quả nhất để kiểm soát hen suyễn, làm giảm tỉ lệ tử vong do hen suyễn, số lần nhập viện, các cơn cấp, đồng thời nâng cao chất lượng sống. Mặc dù, đây là trị liệu hàng đầu cho hen suyễn dai dẳng, ảnh hưởng của nó ở sự phát triển của trẻ vẫn chưa được định nghĩa trước đó, và khả năng làm chậm phát triển và các tác dụng phụ toàn thân tiếp tục là một vấn đề quan tâm.

Ngoài 7 corticosteroid hiện đang sử dụng toàn cầu (beclomethasone, budesonide, ciclesonide, flunisolide, fluticasone, mometasone và triamcinolone), ciclesonide, fluticasone và mometasone là các thuốc mới hơn và được xem là có mức độ an toàn cao hơn.

Thứ Bảy, 19 tháng 7, 2014

Nghiên cứu mới cho thấy nguy cơ Đái tháo đường gia tăng khi sử dụng Statin

Nguy cơ khởi phát Đái tháo đường tuýp 2 gia tăng khi sử dụng liệu pháp statin, đây là điều đã được xác nhận. Tuy nhiên, lợi ích của statin vẫn vượt trội hơn nguy cơ một cách rõ ràng, điều này xuất phát từ một nghiên cứu và phân tích dựa trên dân số mới, đông đảo.

Thứ Tư, 9 tháng 7, 2014

Theo dõi thị trường Dược: những biến động sắp tới trong quý 3 năm 2014

Trong quý 3 của năm 2014, biến động thị trường quan trọng như việc công bố dữ liệu hàng đầu về thử nghiệm Pha 3 của alirocumab (phát triển bởi Regeneron và Sanofi) để điều trị tăng Cholesterol huyết, và sebelipase alfa (phát triển bởi Synageva) dùng để điều trị chứng thiếu hụt lysosomal acid lipase (LAL), cũng như kết quả cuộc họp Hội đồng Cố vấn của FDA về liraglutide (phát triển bởi Novo Nordisk và Johnson & Johnson) để điều trị béo phì.

Thứ Ba, 8 tháng 7, 2014

FDA chấp thuận nivolumab - thuốc đầu tiên tác động Con đường chết theo chương trình

Liệu pháp miễn dịch đầu tiên tác động trên con đường chết theo chương trình (Programmed death (PD) pathway) vừa được công nhận lần đầu tiên trên thế giới.

Nivolumab từng được chấp thuận để sử dụng điều trị u hắc tố ở Nhật bản với biệt dược Opdivo (Ono Pharmaceutical). Ono cũng có bản quyền đối với thuốc này ở Hàn Quốc và Đài Loan.

Thuốc này được cấp phép ở những nơi còn lại cho Bristol-Myers Squibb.

Thứ Hai, 7 tháng 7, 2014

Thuốc giảm đau kê toa gây tử vong "nhiều hơn heroin và cocain cộng lại"

Các thuốc giảm đau kê toa hoạt động theo cơ chế gắn vào các thụ thể ở não bộ và làm giảm nhận thức về cơn đau. Nhưng những thuốc này cũng gây ra cảm giác phởn phơ, tạo nên sự lệ thuốc về thể chất và gây nghiện. Trong bài tổng quan đầu tiên từ các nghiên cứu về đề tài này, các nhà nghiên cứu không cho biết chính xác bao nhiêu người tử vong vì những thuốc này nhưng nó cao hơn số người chết do heroin và cocain cộng lại.

Thứ Năm, 3 tháng 7, 2014

Thứ Tư, 2 tháng 7, 2014

Kháng histamin có giúp chống lại ung thư?

Có lẽ kháng histamin là người bạn tốt mỗi khi chảy nước mắt, ngữa mũi hay chảy mũi trong mùa dị ứng. Nhưng nghiên cứu mới đây cho thấy những thuốc này làm tốt hơn cả việc chống lại bệnh sốt mùa hè, chúng còn có thể chống lại ung thư.

Nhóm nghiên cứu gồn TS. Daniel H. Conrad, thuộc Khoa Vi sinh và Miễn dịch tại Đại học Virginia Commonwealth, công bố nghiên cứu gần đây của họ trên The Journal of Leukocyte Biology.

Kháng histamin là thuốc được sử dụng để ngăn ngừa và giảm triệu chứng dị ứng bao gồm sốt mùa hè, eczema tại chỗ và phản ứng côn trùng cắn và phát ban. Thuốc này hoạt động theo cách ngăn phóng thích histamin - một chất tạo ra bởi cơ thể gây ra chảy nước mắt, ngứa, hắt hơi, chảy mũi và khó thở.

Nhưng những nhà nghiên cứu thấy rằng ngoài việc kháng histamin làm điều đó, chúng còn can thiệp vào chức năng của tế bào ức chế dẫn xuất myeloid - một loại tế nào cản trở khả năng chống lại khối u của cơ thể - điều này có nghĩa đây là một ứng viên thuốc điều trị ung thư mới.

Dinh dưỡng: Vitamin vẫn đang thử nghiệm

Sau nhiều thập kỷ nghiên cứu, người ta vẫn chưa thống nhất về việc liệu rằng các thực phẩm bổ sung có thực sự nâng cao sức khỏe hay không.

Năm 1911, nhà hóa học người Ba Lan Casimir Funk đã tìm ra bí ẩn đằng sau chứng thần kinh gọi là beriberi, khá phổ biến ở khu vực mà nguồn calo chính của người dân là từ gạo "bóng", đã loại vỏ trấu. Ông nuôi một nhóm bồ câu nhiễm bệnh bằng một chất tách từ cám, trong 12 giờ, thì chúng hồi phục. Funk đưa đến kết luận rằng những bệnh nhẹ như beriberi và scurvy gia tăng là do sự thiếu hụt các chất dinh dưỡng như chất mà ông tìm ra trong trấu gạo. Ông mô tả những chất này là các vital amines - amin của sự sống hay gọi tắt là "vitamin".

Thứ Sáu, 27 tháng 6, 2014

Sản phẩm trị mụn tại chỗ không kê toa: Thông báo an toàn thuốc - các phản ứng quá mẫn hiếm nhưng nghiêm trọng

Ngày 25 tháng 06 năm 2014

VẤN ĐỀ: FDA cảnh báo rằng các sản phẩm trị mụn tại chỗ không kê toa có thể gây ra phản ứng dị ứng hoặc kích ứng nghiêm trọng hiếm gặp nhưng nghiêm trọng và có thể đe doạ tính mạng. Người sử dụng nên dừng sử dụng những sản phẩm này và cấp cứu ngay nếu gặp các phản ứng quá mẫn như cổ họng co thắt, khó thở, đau, sưng mắt, mặt, môi, lưỡi. Người tiêu dùng cũng nên dừng sử dụng nếu thấy ngứa, phát ban. Phản ứng quá mẫn có thể xảy ra trong vài phút tới một ngày hoặc lâu hơn kể từ lúc sử dụng.

Những phản ứng quá mẫn nghiêm trọng này khác với kích ứng da cục bộ - chỉ xảy ra ở vùng da sử dụng sản phẩm, như đỏ, nóng, khô, ngứa, tróc da, sưng nhẹ, những điều này đã được ghi trong nhãn thuốc.

Sản phẩm trị mụn tại chỗ không kê toa liên quan được kinh doanh dưới nhiều nhãn hiệu như Proactiv, Neutrogena, MaxClarity, Oxy, Ambi, Clean & Clear hoặc các nhãn hiệu cửa hàng khác. Chúng có sẵn dưới dạng gel, nước rửa, sữa rửa mặt, dung dịch, miếng pad, ống nước, bàn chải và các sản phẩm khác

TỔNG QUAN: Dựa trên những thông tin báo cáo về FDA, không thể xác định rằng các phản ứng quá mẫn nghiêm trọng có phải gây ra do các thành phần hoạt chất trong các sản phẩm trị mụn, benzoyl peroxid hay acid salicylic, các thành phần không hoạt tính hay cả hai. FDA tiếp tục theo dõi và đánh giá vấn đề an toàn và sẽ làm việc với nhà sản xuất về sự thay đổi nhãn trong tương lai về việc chú ý tới các phản ứng quá mẫn nghiêm trọng.

KHUYẾN CÁO: Trước khi sử dụng lần đầu tiên một sản phẩm trị mụn tại chỗ không kê toa, nên sử dung một lượng nhỏ ở một hoặc hai vị trí trong 3 ngày để chắc rằng bạn không xảy ra các triệu chứng quá mẫn. Nếu không có điều gì khó chịu xảy ra, tiếp tục sử dụng theo chỉ dẫn trên nhãn.

(Drugs)

Thu hồi Gạo men đỏ của hãng Doctor's Best do chứa Lovastatin

VẤN ĐỀ: Hãng Doctor's Best đã tình nguyện thu hồi lô 3121005 (7379 chai) thực phẩm chức năng Gạo men đỏ, viên nang 600 mg, chai 120 viên từ nhà bán lẻ. Gao men đỏ Doctor's Best tìm thấy có chứa lovastatin không kê khai, một thuốc trước kia được chấp thuận để điều trị chứng cao cholesterol, khiên cho sản phẩm này (gạo men đỏ - ND) không phải là một thuốc được cho phép.

Những khách hàng sử dụng sản phẩm có chứa lovastatin ở một số trường hợp có thể gây ra tình trạng tổn thương cơ; đặc biệt là khi dùng các statin như lovastatin, simvastatin, hay atorvastatin. Phụ nữ mang thai về lý thuyết có thể xuất hiện nguy cơ trên thai nhi khi sử dụng các chế phẩm có chưa lovastatin không kê khai. Bệnh nhân có tiền sử bệnh gan từ trước có thể tăng nguye cơ tổn thương gan khi sử dụng statin lâu dài.

TỔNG QUAN: Gạo men đỏ Doctor's Best được phân phối toàn Hoa Kỳ thông qua bán lẻ và Internet. Nó được quảng cáo như là thực phẩm chức năng làm giảm cholesterol và được đóng gói trong chai nhựa trắng với nắp cam, và có UPC code 753950001183. Lô thu hồi 3121005 và hết hạn tháng 2 năm 2017.

KHUYẾN CÁO: Hãng Doctor's Best đang thông báo tới nhà phân phối và khách hàng qua mail và thu xếp thu hồi sản phẩm. Khách hàng/nhà phân phối/nhà bán lẻ có sản phẩm thuộc diện thu hồi nên ngừng sử dụng và trả về nơi mua.

(Drugs)

Thứ Năm, 26 tháng 6, 2014

Olmesartan: Thông báo an toàn thuốc - Báo cáo của FDA cho thấy nguy cơ tim mạch đối với bệnh Đái tháo đường là không thuyết phục

VẤN ĐỀ: FDA đã hoàn thành báo cáo an toàn và thấy rằng không có bằng chứng rõ ràng về việc gia tăng nguy cơ tim mạch khi sử dụng thuốc trị tăng huyết áp olmesartan ở bệnh nhân đái tháo đường. FDA tin rằng lợi ích của olmersartan ở bệnh nhân cao huyết áp vẫn cao hơn nguy cơ tiềm ẩn.

TỔNG QUAN: Báo cáo an toàn của FDA đã nhắc lại kết quả của thử nghiệm ROADMAP. Thử nghiệp ROADMAP (Randomized Olmesartan and Diabetes Microalbuminuria Prevention) đánh giá ảnh hưởng của olmesartan trên bệnh nhân ĐTĐ tuýp 2 và cho thấy olmesartan có thể làm chậm tổn thương thận. Không thấy bằng chứng về sự gia tăng nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch ở nhóm dùng olmesartan so với nhóm giả dược hay viên đường. Tuy vậy, nguy cơ cơn đau tim không nguy hiểm thấp hơn ở nhóm điều trị với olmesartan. Để đánh giá kết quả này, FDA đã xem xét thêm các nghiên cứu, bao gồm một nghiên cứu lớn ở các bệnh nhân Medicare.

KHUYẾN CÁO: Bệnh nhân không nên dừng sử dụng olmesartan hay các thuốc trị cao huyết áp khác mà không thảo luận trước với bác sĩ. Khuyên cáo sử dụng olmesartan vẫn không thay đổi, nhưng FDA sẽ cần thêm thông tin từ nhiều nghiên cứu bao gồm nhiều nhãn thuốc.

(Drugs)